Biểu tình mai dan: Ảnh minh họa
Trong thế giới hiện đại, nơi thông tin lan truyền với tốc độ ánh sáng, có những làn sóng tưởng như mang theo hy vọng, nhưng thực chất lại ẩn chứa hiểm họa khôn lường. Một trong số đó là “cách mạng màu”, những cuộc chính biến được khoác lên lớp áo dân chủ, nhưng thực chất là công cụ để can thiệp, thao túng và phá hoại sự ổn định của các quốc gia.
Bản chất thật sự của cách mạng màu: Cách mạng màu (Color Revolutions) không phải là những cuộc cách mạng tự phát của nhân dân vì lợi ích cộng đồng. Chúng là những phong trào biểu tình được tổ chức bài bản, có sự hậu thuẫn từ các tổ chức phi chính phủ, các thế lực bên ngoài, nhằm thay đổi chế độ chính trị theo hướng có lợi cho họ.
Dưới danh nghĩa “đòi dân chủ”, “chống tham nhũng”,
Bạo loạn lật đổ chính phủ ở Banglades. Ảnh minh họa
các cuộc cách mạng màu thường sử dụng mạng xã hội, truyền thông để lan truyền thông tin sai lệch, kích động dư luận
Biểu tình cách mạng màu ở Kyrgyzstan: Ảnh minh họa
tạo ra sự chia rẽ trong xã hội. Những biểu tượng màu sắc như “Cam”, “Hoa hồng”, “Tulip” chỉ là lớp vỏ mỹ miều che giấu một kịch bản đã được dàn dựng từ trước.
Bạo loạn lật đổ chính phủ Nepal. Ảnh minh họa
Hiểm họa đối với sự ổn định quốc gia: Không ít quốc gia đã phải trả giá đắt sau các cuộc cách mạng màu: chính quyền bị lật đổ, xã hội rơi vào hỗn loạn, kinh tế suy sụp, và người dân trở thành nạn nhân của những toan tính chính trị. Georgia, Ukraine, Kyrgyzstan, mới đây là Srilanka, Pakistan, Banglades, Nepan, Indonesia… là những ví dụ điển hình cho hậu quả của việc để các thế lực bên ngoài can thiệp vào nội bộ.
Biểu tình phản đối chính phủ ở Pakistan: Ảnh minh họa
Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, ổn định chính trị là nền tảng cho mọi thành tựu. Nhưng chúng ta không nằm ngoài tầm ngắm của những âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những biến thể tinh vi của cách mạng màu.
Biểu tình phản đối Luật đặc khu và Luật An ninh mạng 2018
Các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng các vấn đề xã hội như ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng, hay dịch bệnh để kích động, chia rẽ và làm suy yếu niềm tin của nhân dân.
Nhuốm màu can thiệp từ các thế lực bên ngoài
Làm gì để ngăn chặn cách mạng màu? Ngăn chặn cách mạng màu không chỉ là trách nhiệm của chính phủ, mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân yêu nước. Trong thời đại thông tin số, khi những âm mưu phá hoại có thể len lỏi qua từng dòng tin tức, từng bài đăng mạng xã hội, thì sự tỉnh táo và đoàn kết của nhân dân chính là lá chắn vững chắc nhất. Để ngăn chặn có hiệu quả âm mưu cách mạng màu nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”; bảo vệ sự ổn định và chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị của đất nước, chúng ta cần hành động từ những điều tưởng chừng nhỏ bé nhưng lại có sức mạnh lan tỏa to lớn, giúp mỗi người trong chúng ta thêm tự tin, thêm yêu đất nước, Tổ quốc mình nhiều hơn, mỗi chúng ta cần phải:
Đoàn viên thanh niên Việt Nam. Ảnh minh họa
Một là, nâng cao nhận thức – Tự trang bị “lá chắn tư tưởng”: Hiểu rõ bản chất thật sự của cách mạng màu là bước đầu tiên để không bị lôi kéo, kích động. Mỗi người dân cần nhận diện được những chiêu trò ngụy trang dưới danh nghĩa “dân chủ”, “nhân quyền”, để từ đó có thể phân biệt giữa phản biện xây dựng và phá hoại trá hình. Khi nhận thức được nâng cao, lòng tin vào con đường phát triển của dân tộc sẽ trở nên vững chắc hơn bao giờ hết.
Hai là, cảnh giác với thông tin sai lệch, làm chủ không gian mạng: Mạng xã hội là nơi lý tưởng để các thế lực thù địch gieo rắc hoài nghi, chia rẽ và kích động.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong toàn dân.
Ảnh minh họa
Vì vậy, mỗi người cần trở thành một “người gác cổng thông tin”, biết kiểm chứng nguồn tin, không chia sẻ những nội dung chưa được xác thực, và sẵn sàng lên tiếng khi thấy thông tin độc hại. Một cú nhấp chuột vô thức có thể tiếp tay cho sự hỗn loạn, nhưng một hành động tỉnh táo lại có thể bảo vệ cả cộng đồng.
Sẵn sàng tuyên chiến với tin giả, xấu độc
Ba là, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đầu tư cho thế hệ tương lai: Giới trẻ là lực lượng dễ bị tác động nhất, nhưng cũng là nguồn lực mạnh mẽ nhất nếu được định hướng đúng đắn. Việc giáo dục chính trị, tư tưởng không nên chỉ dừng ở lý thuyết, mà cần gắn với thực tiễn, với những câu chuyện lịch sử, những bài học từ các quốc gia đã từng rơi vào vòng xoáy cách mạng màu. Khi người trẻ hiểu rõ giá trị của độc lập, tự chủ, họ sẽ trở thành những người bảo vệ vững vàng nhất cho Tổ quốc.
Bốn là, ủng hộ sự ổn định, bảo vệ thành quả phát triển: Không có dân chủ nào tồn tại trong hỗn loạn.
Hội nghị quán triệt Nghị quyết của Trung ương. Ảnh minh họa
Sự ổn định chính trị là nền tảng để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và giữ vững vị thế quốc gia. Việc ủng hộ sự ổn định không có nghĩa là chấp nhận mọi thứ một cách thụ động, mà là cùng nhau xây dựng, đóng góp và bảo vệ những thành quả đã đạt được. Đó là cách thể hiện lòng yêu nước thiết thực nhất.
Tri ân các anh hùng liệt sĩ tại Quảng Trị . Ảnh minh họa
Cách mạng màu không phải là ánh sáng của dân chủ, mà là bóng tối của sự thao túng. Chúng ta không thể để những bàn tay vô hình vẽ lại vận mệnh dân tộc bằng những gam màu giả tạo. Hãy tỉnh táo, đoàn kết và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một Việt Nam ổn định, phát triển và trường tồn.
Ngày 20/9/2025
Vi Đồng
Ảnh MXH
Có thể khẳng định nước Nga ngày nay đối với thế giới có vai trò hết sức quan trọng trong giải quyết các vấn đề quốc tế như: an ninh phi truyền thống, kinh tế, dịch bệnh, năng lượng, xung đột vũ trang, phi hạt nhân hóa, khủng hoảng chính trị.
Thành phố Matxcơva của Nga
Sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã phát triển một cách ngoạn mục, trở thành một quốc gia hùng mạnh, là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống áp bức, bóc lột, nhất là phong trào cách mạng ở các quốc gia thuộc địa. Chiến tranh Thế giới thứ II nổ ra, nước Nga lại phải đương đầu với một thử thách vô cùng khắc nghiệt, nhưng cuối cùng Hồng quân Liên Xô và các nước đồng minh đã đánh bại chủ nghĩa phát xít, chấm dứt Chiến tranh Thế giới thứ II, cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít, bảo vệ nền hòa bình thế giới. Sau chiến thắng phát xít, một loạt các nước XHCN ở Đông Âu ra đời tạo thành một Khối hiệp ước vững chắc để bảo vệ hòa bình thế giới, là chỗ dựa tinh thần cho cách mạng XHCN và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhiều quốc gia từ thân phận nô lệ, thuộc địa đã đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam giành được độc lập bằng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, từ tay phát xít Nhật.
Xe tăng T34 của Nga
Liên Xô đã khôi phục đất nước sau chiến tranh, phát triển vượt bậc nhiều thành tựu về chính trị, kinh tế, xã hội, nhanh chóng trở thành trở thanh cường quốc, ngang tầm với Mỹ; đồng thời là thành trì, chỗ dựa vững chắc cho lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, đấu tranh chống áp bức, cường quyền trên phạm vi toàn thế giới. Liên Xô cũng đã giúp đỡ nhiều quốc gia, đóng vai trò kiến tạo hòa bình, để các quốc gia thuộc địa có cơ hội đứng lên chống lại áp bức, bóc lột, giải phóng đất nước, giải phóng giai cấp giành lại độc lập. Liên Xô cũng đã đứng ra tập hợp lực lượng, hỗ trợ các nước, tổ chức giúp đào tạo nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ cho các quốc gia có tư tưởng tiến bộ, gây dựng phong trào; hỗ trợ vũ khí, trang bị cho các nước anh em trong phe XHCN nhằm chống lại áp bức, cường quyền, chống xâm lược.
Liên Xô lớn mạnh, hùng cường, có đầy đủ tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự trên phạm vi toàn thế giới, vị thế cường quốc quân sự đã tạo thêm niềm tin đồng thời hành động có trách nhiệm với các nước XHCN anh em. Đặc biệt là quan hệ hợp tác hữu nghị với Việt Nam, đã giúp nhân dân Việt Nam giành lại hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, giúp nhân dân Việt Nam khôi phục lại đất nước sau chiến tranh, phát triển đất nước, đó là những đặc ân mà Liên Xô đã giành cho Việt Nam. Nhiều công trình hữu nghị đã được xây dựng trên dải đất nước hình chữ S của chúng ta, mang đậm nét tình đoàn kết anh em XHCN.
Vũ khí trang bị của Nga
Tuy nhiên, trong thập niên 90 của thế kỷ XX, có lẽ bất kể người Việt Nam nào cũng đều cảm nhận được một nỗi đau lớn chưa từng có, đó là sự kiện chấn động thế giới Liên bang Xô viết XHCN Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã. Trên đài phát thanh khi ấy, chuyên mục thời sự tôi được nghe “có những đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô, ngồi ngay ở Quảng trưởng Đỏ, rút tấm thẻ Đảng viên trong túi ra, họ ngang nhiên châm lửa đốt bỏ”. Khi ấy, tôi là chàng trai vừa tốt nghiệp Trung học phổ thông, chưa hiểu nhiều gì về chính trị (có thể ai đó đọc được dòng cảm nhận này của tôi thì sẽ biết được điều đó), càng về sau, khi nghe những người lão thành cách mạng ở địa phương kể về những câu chuyện thời sự, tôi càng hiểu ra là “Không có nỗi đau nào bằng sự tan rã của một Đảng Cộng sản cầm quyền ở một quốc gia rộng lớn nhất thế giới đó lại là Liên Bang Cộng hòa XHCN Xô Viết Liên Xô”, các nước yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới mất đi một chỗ dựa, mất đi một thành trì của Hệ thống XHCN; cách mạng XHCN, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào.
Nước Nga kế thừa những di sản còn lại của Liên Xô tan rã, đứng mũi chịu sào, giải quyết các vấn đề quốc tế, trong thế yếu ớt, nội bộ, chính trị, xã hội chia rẽ, cuộc sống của nhân dân Nga lao dốc không phanh, khó khăn chồng chất, đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức, nước Nga tiếng nói không còn được coi trọng trong cộng đồng quốc tế, đứng ở vị trí thứ yếu. Đứng trước những khó khăn thách thức toàn cầu, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là phương Tây và Mỹ đã lũng đoạn thế giới, gây chiến khắp nơi.
Sau hơn 20 năm, Tổng thống V.Putin lên nắm quyền lãnh đạo đất nước, đoàn kết dân tộc, khôi phục lại tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao; đời sống nhân dân Nga từng bước được cải thiện, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, ổn định về chính trị, phát triển nhanh chóng về tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, lãnh thổ. Đến nay, nước Nga trở lại vị thế là một cường quốc cả về chính trị, quân sự, an ninh và kinh tế, đóng góp ngày càng thực chất vào công cuộc kiến tạo hòa bình thế giới trong thời kỳ mới. Chính sự phát triển của nước Nga hùng cường, mạnh mẽ, hành động có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới, lấy lại vị thế là một cường quốc như Liên Xô trước đây, đã đóng góp quan trọng, là chỗ dựa vững chắc cho các nước yêu chuộng hòa bình, lực lượng tiến bộ trên thế giới; đồng thời ngăn chặn hiệu quả nguy cơ chiến chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.
Vũ khí trang bị Nga duyệt binh
Có thể khẳng định nước Nga ngày nay đối với thế giới có vai trò hết sức quan trọng trong giải quyết các vấn đề quốc tế như: an ninh phi truyền thống, kinh tế, dịch bệnh, năng lượng, xung đột vũ trang, phi hạt nhân hóa, khủng hoảng chính trị. Tuy nhiên, khó khăn chính nổi lên là: Mỹ và các nước phương Tây tiếp tục thực hiện chính sách cấm vận, bao vây kinh tế, cô lập về chính trị, ngoại giao, răn đe quân sự… trong thế giới đa cực, biến động không ngừng. Thiết nghĩ, trong những năm tới Nga sẽ vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục giữ vai trò đối tác chiến lược quan trọng trong Khu vực và toàn cầu, giữ vững vị thế cường quốc. Đóng góp quan trọng vào việc ngăn chặn hiệu quả nguy cơ chiến chiến tranh, bảo vệ và duy trì hòa bình thế giới./.
Cảm nhận tháng 12/2021
Bài và Ảnh: Vi Đồng
link gốc https://www.xn--mitrngbloger-eib94x960p.vn/2021/12/nuoc-nga-hung-cuong-se-co-loi-cho-hoa.html
Việt Nam và Trung Quốc, hai quốc gia láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, nhiều nét văn hóa tương đồng, có cùng thể chế chính trị do Đảng cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đất nước. Đường biên giới của hai quốc gia trên đất liền, trên biển rộng lớn, có nhiều tiềm năng trong quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao. Đặc biệt là, trong hơn 2 năm qua hai nước Việt – Trung cùng nhau hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau nhiều mặt trận, nhất là mặt trận chống đại dịch Covid-19. Có thể nói, qua 72 năm từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia, quan hệ hai nước Việt-Trung có những bước thăng trầm của lịch sử, nhiều chông gai thử thách, có giai đoạn quan hệ hai nước căng thẳng về chính trị, đối đầu quân sự, đã xảy ra xung đột cả trên tuyến biên giới đất liền (1979), trên biển Đông (sự kiện Gạc Ma 1988-Quần đảo Trường Sa Việt Nam). Tuy nhiên, Việt Nam với chính sách hòa hiếu, lấy nhân nghĩa làm trọng, chủ trương gác lại bất đồng, một số khác biệt về nhận thức, tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị toàn diện với Trung Quốc vì hòa bình, hợp tác, phát triển của mỗi Đảng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Quan hệ Việt - Trung trong những năm gần đây liên tục được tăng cường và phát triển, nhất là sau Đại hội XII, XIII của Đảng, nhận thức chung giưa hai Đảng, hai nhà nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiểu biết lẫn nhau, tăng cường tin cậy chính trị giữa hai bên, nhất là thông qua các kênh đối ngoại quốc phòng, an ninh, nhân dân, ngoại giao...
Cách đây 14 năm (tháng 5/2008) lãnh đạo cấp cao Việt Nam - Trung Quốc nhất trí xây dựng quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện trong thế kỷ XXI, trên cơ sở phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Quan hệ hợp tác, hữu nghị láng giềng thân thiện giữa hai quốc gia là tài sản quy giá của hai dân tộc, hai Đảng, hai Nhà nước, đặc biệt là việc xây dựng quan hệ quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, cho thấy vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt -Trung được xác lập phù hợp với xu thế chung thời đại, đưa ra những định hướng lớn, quan trọng thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển ổn định, lành mạnh, bền vững; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển ổn định lâu dài ở khu vực Đông Nam Á, Châu Á-Thái Bình Dương và thế giới.
Trước tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc chiến Nga- Ucraina, biến động chính trị, suy thoái kinh tế ở khu vực và thế giới, đã làm ảnh hưởng lớn phát triển của mỗi quốc gia. Trung Quốc cũng như Việt Nam đang chịu sự tác động ảnh hưởng rất lớn bởi những nhân tố khách quan nêu trên.
Chúng ta nhận thấy quan hệ kinh tế thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc gia tăng hằng năm, theo thống kê gần đây, kinh ngạch thương mại 2 chiều tăng bình quân từ 15 đến 20% /năm vượt ngưỡng 200 tỷ USD; kim ngạch xuất, nhập khẩu năm sau cao hơn năm trước. Điều đó cho thấy, Trung Quốc là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam ở khu vực ASEAN và Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ sáu của Trung Quốc trên thế giới.
Vấn đề biên giới lãnh thổ, Việt Nam – Trung quốc thống nhất nhận thức chung, duy trì hòa bình, ổn định; tăng cường hợp tác, đối thoại, kiểm soát bất đồng trên biển theo Công ước LHQ về Luật biển năm 1982. Trong quan hệ đối ngoại, tăng cường kênh tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp các bên; duy trì giao lưu, kết nối giữa hai Đảng, hai nước, tăng cường lòng tin chiến lược, niềm tin chính trị hai bên; ủng hộ lẫn nhau trong quan hệ quốc tế. Về chính trị, nhiều cuộc hội thảo khoa học trực tiếp, trực tuyến nhằm phổ biến, truyền thụ kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền Nhà nước được hai bên tổ chức rất thành công.
CÁ VỀ BIỂN HỒ TRÀM
Đối ngoại quốc phòng, an ninh trong những năm gần đây, được hai Đảng, hai Nhà nước quan tâm, xác định đối ngoại quốc phòng, an ninh là trụ cột trong quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia, kênh ngắn nhất, quan trọng nhất nhằm tăng cường nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, góp phần đưa quan hệ hữu nghị và hợp tác cùng có lợi Việt Nam-Trung Quốc ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, phát triển hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai Đảng, hai nước trong những năm tới.
Theo quan điểm cá nhân để quan hệ Việt Nam-Trung Quốc xứng tầm đối tác chiến lược toàn diện trong những năm tới, cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
Một là, đẩy mạnh công tác định hướng thông tin, tuyên truyền, phổ biến, những nội dung cơ bản về nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai nước; mối quan hệ hữu nghị, hợp tác trên chặng đường 72 năm phát triển hai Ðảng, hai nước và nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, dành cho nhau sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và quý báu, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Đặc biệt là kết quả hơn 10 năm xây dựng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc.
Hai là, xây dựng lòng tin chiến lược, niềm tin chính trị giữa hai quốc gia, trên cơ sở phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Để hai Đảng và Nhân dân hai nước thực sự đoàn kết, hữu nghị, tin cậy lẫn nhau, cùng chung sống hòa bình, hợp tác, phát triển toàn diện, cuộc sống ổn định lâu dài, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.
Ba là, thường xuyên mở rộng các kênh đối thoại, trao đổi thông tin, giao lưu, tăng cường hiểu biết, trên tinh thần cởi mở, hợp tác, tôn trọng lẫn nhau; tìm những nét chung nhất, những điểm tương đồng để cùng nhau xây dựng tình cảm láng giềng thân thiện, bạn bè tốt, tin cậy, hỗ trợ nhau trên trường quốc tế, trở thành đồng chí, chung lý tưởng xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia.
Bốn là, giữ vững và tăng cường quan hệ đối ngoại, trọng tâm là đối ngoại quốc phòng, an ninh, thường xuyên vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa hai quốc gia, trở thành tài sản quý báu giữa hai dân tộc; góp phần duy trì ổn định định hướng phát triển trong quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam – Trung Quốc, đem lại lợi ích thiết thực cho Nhân dân hai nước.
Năm là, nâng tầm hợp tác toàn diện, trong đó chú trọng ký kết các văn bản hợp tác kinh tế, đầu tư… song phương giữa hai bên, bảo đảm để nhân dân hai nước có quan hệ kinh tế bình đẳng, thực hiện đúng tiêu chuẩn khung trong cam kết, nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao giữa hai quốc gia, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Sáu là, đổi mới phương thức tổ chức giao lưu, trao đổi giữa các đoàn thể quần chúng, theo hướng mở rộng, tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ hai nước. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường hơn nữa các diễn đàn nhân dân, liên hoan hữu nghị nhân dân, liên hoan nhân dân biên giới, gặp gỡ hữu nghị thanh niên, liên hoan thanh niên, giao lưu hữu nghị quốc phòng, an ninh biên giới…; hướng tới mục tiêu chung là đoàn kết, hữu nghị và xây dựng biên giới giữa hai nước hòa bình, cùng phát triển.
Trong những năm tới, với lợi thế hai quốc gia láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, nhiều nét văn hóa tương đồng, có cùng thể chế chính trị do Đảng cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đất nước, nhất định quan hệ Việt Nam và Trung Quốc ngày càng được củng cố, tin cậy và phát triển, đóng góp chung vào mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và thế giới.
Vi Đồng
Tháng 9.2022
link gốc: https://www.xn--mitrnganton-h7a4w57g960p.vn/2022/09/quan-he-viet-nam-trung-quoc-xung-tam-oi.html
LTG- Theo quan điểm cá nhân thì bản lĩnh chính trị là hoạt động của ý thức con người, là nhân tố bên trong của kiến trúc thượng tầng của bộ não người, được tôi luyện thông qua giáo dục trực quan, thực tiễn cuộc sống, công tác, đúc kết được kinh nghiệm; đồng thời đưa ra những quyết định mang tính độc lập, quyết đoán, chính xác, giải quyết kịp thời các tình huống nảy sinh, mang lại hiệu quả thiết thực, nhằm đạt được mục tiêu chính trị thuộc thẩm quyền, trọng trách mà mình đang nắm giữ.
Vì sao phải xây dựng bản lĩnh chính trị? Bản lĩnh chính trị là hành động, tư tưởng, ý chí thể hiện quan điểm, lập trường, phẩm chất chính trị, năng lực thực hành của người đảng viên, cán bộ trong môi trường công tác thuộc lĩnh vực mình phụ trách, biết tận dụng thuận lợi, thời cơ vượt qua khó khăn thách thức, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Qua hoạt động thực tiễn của bản thân và điều kiện thực tiễn khách quan nhưng vẫn kiểm soát được hành vi, kỹ năng lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện trong mọi điều kiện hoàn cảnh, không bị giao động bởi yếu tố ngoại cảnh.
Xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên có ý nghĩa quan trọng như thế nào?
- Bản lĩnh chính trị là niềm tin chính trị, sự tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng cách mạng, con đường xây dựng và phát triển đất nước mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lưa chọn; một yêu cầu có giá trị cốt lõi nhất, cơ bản nhất, phẩm chất quan trọng nhất trong mỗi cán bộ, đảng viên; là sự cụ thể hóa giá trị cốt lõi của tính Đảng, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đồng thời mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã xác định.
- Đảng ta chỉ rõ 4 nguy cơ: Chệch hướng XHCN; diễn biến hòa bình; tụt hậu xa hơn về kinh tế; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII tiếp tục chỉ rõ một vấn đề ở mức độ cao hơn đó là biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tiêu cực” và “chủ nghĩa cá nhân”. Vì vậy, xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên vừa là yêu cầu cấp bách, vừa có tính chất xuyên suốt lâu dài, tạo ra đội ngũ cán bộ, đảng viên có tâm, có tầm, nhạy bén về chính trị, uyên bác về mọi vấn đề trong nước, quốc tế, hành động vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
- Con người là chủ thể của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội; do đó, xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới là một yêu cầu khách quan. Cán bộ, đảng viên là nhân tố có tính chất quyết định vận mệnh quốc gia, dân tộc, đường lối chiến lược phát triển đất nước và xây dựng thành công CNXH với mục tiêu đặt ra: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Khẳng định: Nếu cán bộ, đảng viên không có bản lĩnh chính trị thì không thể lãnh đạo đất nước đạt được các mục tiêu nêu trên.
Cơ sở lý luận và thực tiễn:
- Xuất phát từ lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng. V. I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh: “Khi chủ trương, đường lối, chính sách và nhiệm vụ được Đảng vạch ra một cách đúng đắn, thì kết quả thực hiện hoàn toàn do đội ngũ cán bộ và công tác tổ chức cán bộ tạo nên; quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Do đó, để cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị trước hết phải thấm nhuần, tin tưởng tuyệt đối vào lý luận cách mạng, khoa học, tính đúng đắn, hiện thực khách quan của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết hài hòa các lợi ích trên cơ sở hợp tác hai bên cùng có lợi trong các mối quan hệ, tránh bất đồng ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
- Xuất phát từ nhận thức về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đường lối chiến lược cách mạng của Đảng ta xác định trong văn kiện các kỳ Đại hội, nhất là nhận thức mới mà Đại hội XIII Đảng đã đề cập, phấn đấu “Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; hành động, tư tưởng, đưa ra những quyết sách mang tính chiến lược, có tầm nhìn dài hạn phải trên cơ sở vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”; vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
- Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch: Hiện nay các thế lực thù địch trong nước và quốc tế đang đẩy mạnh chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, lợi dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; những yếu kém trong quản lý kinh tế-xã hội, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội để tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật, cổ vũ cho lối sống thực dụng, ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân. Chống phá cách mạng, con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng tinh vi, thâm độc hơn; chúng phủ nhận, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; gieo rắc gây hoài nghi trong xã hội, trong cán bộ, đảng viên về mục tiêu, con đường đi lên CNXH ở nước ta mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự có bản lĩnh chính trị, kiên định vững vàng trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, không chùn bước trước khó khăn thách thức, phấn đấu nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà tổ chức giao phó. Kiên quết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, đề kháng có hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, chống phá trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, thông tin của của các thế lực thù địch.
- Xuất phát từ yêu cầu xây dựng chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá tổng quát về công tác xây dựng Đảng toàn khóa nổi lên nhiều ưu điểm, song cũng không ít những khuyết điểm yếu kém được chỉ ra. Đặc biệt là Nghị quyết TW4 khóa XIII của Đảng đã đánh giá thực trạng “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa có hoặc có nhưng chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch...”. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nâng cao bản lĩnh chính trị, quyết tâm cùng toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nhiệm vụ và giải pháp trong thời gian tới?
1. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; mục tiêu, quan điểm, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước cho cán bộ, đảng viên; nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên được giao nhiệm vụ đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội. Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên CHXH mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; phòng, chống có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
2. Tiến hành đồng bộ các giải pháp mang tính chiến lược, toàn diện công tác tuyên truyền, cổ động bằng nhiều hình thức, tập trung đổi mới phương thức, vận dụng tối đa công nghệ thông tin và truyền thông để tác động trực quan đến cán bộ, đảng viên và toàn dân. Đồng thời cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở cần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan truyền thông từng khu vực, từng địa bàn, từng vùng dân cư, vùng đồng bào dân tộc… để vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước; thực hiện cải cách, đổi mới cách thức tiếp cận Nhân dân, giành địa bàn, giữ địa bàn….là một trong những yêu cầu chiến lược công tác tuyên truyền trong tình hình mới. Đây được coi là một trong những yêu cầu cấp bách của Đảng, chính phủ, cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội phải làm trong những năm tới. Nếu chúng ta để mất địa bàn về công tác tư tưởng, văn hóa sẽ là cơ hội lớn để các thế lực thù địch lợi dụng kẽ hở để chống phá.
3. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là xây dựng nguồn lực cán bộ, đội ngũ cán bộ của Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, đủ tâm, đủ tầm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển đất nước trong những năm tới. Coi trọng chất lượng, năng lực thích ứng linh hoạt của cán bộ, đảng viên trong giải quyết những vấn đề nảy sinh trong xã hội, ứng phó kịp thời, khoa học với các thách thức truyền thống và an ninh phi truyền thống. Cán bộ, đảng viên cần phải được kinh qua thử thách từ cấp cơ sở cho đến cấp cao, thông qua hoạt động thực tiễn để cấp ủy, tổ chức đảng đánh giá thực chất hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, lựa chọn giới thiệu cho Đảng những đảng viên, cán bộ ưu tú nhất, có bản lĩnh chính trị tốt nhất chính là nguồn lực tích cực cho xây dựng và phát triển đất nước.
4. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong đó, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là khâu then chốt. Để cán bộ, đảng viên luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, trước hết phải làm tốt công tác giáo dục, thực hiện một cách bài bản, xuyên suốt, thường xuyên, liên tục làm cho cán bộ, đảng viên am hiểu, tự hào về truyền thống lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tính chân thực, đúng đắn, sáng tạo của đường lối lãnh đạo đất nước mà Đảng ta khởi xướng; đồng thời am hiểu về Luật pháp quốc tế, diễn biến chính trị thế giới, khu vực; những vấn đề nảy sinh môi trường trong nước và quốc tế,…. để có giải pháp ứng phó linh hoạt, kịp thời, phù hợp nhất.
5. Xây dựng ý thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên tự học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, nhất là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Pháp luật Nhà nước; trình độ chính trị, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong thời đại mới; hiểu biết sâu, rộng biết phân biệt rõ đúng, sai; kiên quết phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hiện nay, Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 (4.0) đã phát triển mạnh mẽ, mỗi cán bộ, đảng viên phải đề cao tính tự giác học tập để không ngừng nâng cao nhận thức về mọi mặt, nhất là nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; phép duy vật biện chứng của lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, xây dựng trí tuệ, bản lĩnh kiên định vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức; tăng cường sức đề kháng trước nhưng luận điệu xuyên tạc, âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Cùng với toàn Đảng, toàn dân phòng, chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên các mặt trận, nhất là mặt trận trên không gian mạng.
Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch hằng ngày, hằng giờ không từ bỏ âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chế độ XHCN ở nước ta, đặc biệt là chúng tấn công vào tất cả các mặt trận với hành vi ngày càng tinh vi, thâm độc, trọng tâm là công tác tư tưởng, hòng làm lung lạc ý chí của cán bộ, đảng viên; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Để không mắc mưu các thế lực thù địch trong thời đại Công nghệ 4.0, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nắm chắc và làm chủ tình hình, nêu cao cảnh giác cách mạng; tự trang bị cho mình đầy đủ bản lĩnh chính trị, kiến thức và kinh nghiệm, ứng phó kịp thời, có hiệu quả với các vấn đề này sinh; các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, không để bị động bất ngờ. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa và đối mặt với thách thức an ninh phi truyền thống và những tình huống nảy sinh bất thường. Một mặt chúng ta tìm thấy những điểm tương đồng trong hội nhập quốc tế để làm thời cơ, thuận lợi, tranh thủ vươn lên tìm cơ hội để phát triển đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa. Mặt khác, chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những quan điểm, hành vi tiêu cực, bất lợi, phản khoa học, áp bức, cường quyền, không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Xây dựng bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ, đảng viên trong thời đại Công nghệ 4.0 là yêu cầu khách quan, vừa mang tính chất cấp bách, vừa mang tính lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN./.
Bài và ảnh: Vi Đồng
link gốc: https://www.xn--mitrnganton-h7a4w57g960p.vn/2022/03/xay-dung-ban-linh-chinh-tri-cua-nguoi.html